Nam Cao (1915 – 1951) là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông được xem là người đã góp phần quan trọng trong việc phản ánh chân thực đời sống xã hội nông thôn và thị dân nghèo trước Cách mạng Tháng Tám, đồng thời đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực nhân đạo sâu sắc trong văn học Việt Nam.
Tiểu sử Nam Cao
- Tên thật: Trần Hữu Tri
- Bút danh: Nam Cao (ông còn ký một số bút danh khác như: Thúy Rư, Xuân Du)
- Năm sinh: 29 tháng 10 năm 1915
- Quê quán: Làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam)
- Mất: Tháng 11 năm 1951, tại Ninh Bình (hi sinh trong khi làm nhiệm vụ trong kháng chiến chống Pháp).
- Nghề nghiệp: Nhà văn, nhà báo, chiến sĩ cách mạng.
- Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp
1. Thời niên thiếu và con đường văn chương
Nam Cao sinh trong một gia đình nông dân trung lưu. Ông học hết bậc thành chung, sau đó đi dạy học tư, viết văn, và làm nhiều nghề để sinh sống. Từ rất sớm, Nam Cao đã có ý thức sâu sắc về nỗi khổ của con người và về thân phận cá nhân trong xã hội cũ.
2. Sáng tác trước Cách mạng Tháng Tám (trước 1945)
Giai đoạn này, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán.
Các tác phẩm của ông tập trung phản ánh:
-
Cuộc sống bần cùng, tăm tối của người nông dân (chị Dậu, Chí Phèo, Lão Hạc…).
-
Sự bế tắc, tha hóa của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng.
👉 Đặc điểm nổi bật:
-
Miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc, tinh tế.
-
Dùng ngôn ngữ đời thường, giàu sức biểu cảm.
-
Giọng văn nhân đạo, xót xa, thấm đẫm nỗi đau con người.
3. Sáng tác sau Cách mạng (1945–1951)
Sau Cách mạng Tháng Tám, Nam Cao hăng hái tham gia kháng chiến, viết về con người mới trong cuộc chiến đấu giành độc lập.
Tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này là:
-
Đôi mắt, Nhật ký ở rừng, Chuyện biên giới, Ở rừng,…
Các tác phẩm thể hiện sự chuyển hướng trong tư tưởng: từ bi kịch cá nhân → niềm tin vào con người mới, xã hội mới.
Tác phẩm tiêu biểu
Tiểu thuyết
- Truyện người hàng xóm (1944) – Báo Trung Bắc Thứ Bảy
- Sống mòn (viết xong 1944, xuất bản 1956), Nhà xuất bản Văn Nghệ.
- Và bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.
Truyện ngắn
Trước cách mạng
- Ba người bạn
- Đón khách
- Bài học quét nhà (1943)
- Bảy bông lúa lép
- Cái chết của con Mực
- Cái mặt không chơi được
- Chuyện buồn giữa đêm vui
- Cười
- Con mèo
- Con mèo mắt ngọc
- Chí Phèo (1941)
- Đầu đường xó chợ
- Điếu văn
- Đôi móng giò
- Đời thừa (1943)
- Đòn chồng
- Đui mù
- Nhỏ nhen
- Làm tổ
- Lang Rận
- Lão Hạc (1943)
- Mong mưa
- Một truyện xu-vơ-nia
- Một đám cưới (1944)
- Mua danh
- Mua nhà
- Một bữa no (1943)
- Người thợ rèn
- Nhìn người ta sung sướng
- Những chuyện không muốn viết
- Những trẻ khốn nạn
- Nghèo (1937)
- Nụ cười
- Nước mắt
- Nửa đêm
- Phiêu lưu
- Quái dị
- Quên điều độ
- Anh tẻ
- Rửa hờn
- Sao lại thế này?
- Thôi, đi về
- Giăng sáng (1942)
- Trẻ con không được ăn thịt chó (1942)
- Truyện biên giới
- Truyện tình
- Tư cách mõ (1943)
- Từ ngày mẹ chết
- Xem bói
- Dì Hảo (1941)
- Truyện người hàng xóm
- Rình trộm
- Đảo hang cọp (1942)
- Thám hiểm Châu Phi (1942)
Sau cách mạng
- Mò sâm banh (1945)
- Năm anh hàng thịt (1945)
- Một cuộc đốt làng (1945)
- Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946)
- Cách mạng (1946)
- Đôi mắt (1948)
- Đợi chờ
- Trần Cừ
- Những bàn tay đẹp ấy
- Hội nghị nói thẳng
- Định mức
Truyện ký kháng chiến
- Đường vô Nam
- Ở rừng (Nhật ký)
- Từ ngược về xuôi
- Trên những con đường Việt Bắc
- Bốn cây số cách một căn cứ địch
- Vui dân công
- Vài nét ghi qua vùng giải phóng
Ngoài ra ông còn làm thơ và biên soạn sách địa lý cùng với tác giả Văn Tân: Địa dư các nước châu Âu (1948), Địa dư các nước châu Á, châu Phi (1969), Địa dư Việt Nam (1951).
Phong cách nghệ thuật
-
Hiện thực sâu sắc, nhân đạo thấm thía: Nam Cao nhìn thấy phẩm giá con người ngay cả trong những kiếp sống tăm tối nhất.
-
Phân tích tâm lý tinh tế: Ông đi sâu vào nội tâm nhân vật, đặc biệt là những bi kịch tinh thần.
-
Ngôn ngữ giản dị, đời thường: Gần gũi, chân thực, đôi khi mang giọng mỉa mai, chua chát.
-
Quan niệm nghệ thuật tiến bộ: Ông từng nói:
“Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.”
Di sản và giá trị ảnh hưởng
- Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết dự định sẽ viết. Trên đường về làng Đại Hoàng, ông bị quân Pháp bắt và xử bắn vào ngày 30 tháng 11 năm 1951 tại đồn Hoàng Đan thuộc làng Vũ Đại, xã Gia Trấn (Ninh Bình).
- Sau khi hy sinh, phần mộ ông đã bị thất lạc. Đầu năm 1996, một chương trình có tên “Tìm lại Nam Cao” nhằm tìm lại mộ phần của ông được Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức với sự tham gia của 35 đơn vị tham gia như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, báo Nhân dân,… Với sự giúp đỡ của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) mời dự, ngôi mộ của Nam Cao đã được tìm thấy ở nghĩa trang huyện Gia Viễn, (Ninh Bình) và quy tập về quê hương ông (xã Nam Lý, Ninh Bình). Tuy mất sớm, nhưng ảnh hưởng của ông đến văn học Việt Nam vẫn đáng kể. Cũng trong năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Nhà tưởng niệm Nam Cao được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại Hà Nam để tưởng niệm 53 năm ngày mất của nhà văn này.
- Dù mất sớm, ông để lại một di sản văn học đồ sộ và có giá trị lâu bền.
Tác phẩm của Nam Cao được đưa vào chương trình giảng dạy văn học Việt Nam ở nhiều cấp học.
- Tên thật: Trần Hữu Tri
- Bút danh: Nam Cao (ông còn ký một số bút danh khác như: Thúy Rư, Xuân Du)
- Năm sinh: 29 tháng 10 năm 1915
- Quê quán: Làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam)
- Mất: Tháng 11 năm 1951, tại Ninh Bình (hi sinh trong khi làm nhiệm vụ trong kháng chiến chống Pháp).
- Nghề nghiệp: Nhà văn, nhà báo, chiến sĩ cách mạng.
- Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Thời niên thiếu và con đường văn chương
Nam Cao sinh trong một gia đình nông dân trung lưu. Ông học hết bậc thành chung, sau đó đi dạy học tư, viết văn, và làm nhiều nghề để sinh sống. Từ rất sớm, Nam Cao đã có ý thức sâu sắc về nỗi khổ của con người và về thân phận cá nhân trong xã hội cũ.
2. Sáng tác trước Cách mạng Tháng Tám (trước 1945)
Giai đoạn này, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán.
Các tác phẩm của ông tập trung phản ánh:
-
Cuộc sống bần cùng, tăm tối của người nông dân (chị Dậu, Chí Phèo, Lão Hạc…).
-
Sự bế tắc, tha hóa của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng.
👉 Đặc điểm nổi bật:
-
Miêu tả tâm lý nhân vật sâu sắc, tinh tế.
-
Dùng ngôn ngữ đời thường, giàu sức biểu cảm.
-
Giọng văn nhân đạo, xót xa, thấm đẫm nỗi đau con người.
3. Sáng tác sau Cách mạng (1945–1951)
Sau Cách mạng Tháng Tám, Nam Cao hăng hái tham gia kháng chiến, viết về con người mới trong cuộc chiến đấu giành độc lập.
Tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này là:
-
Đôi mắt, Nhật ký ở rừng, Chuyện biên giới, Ở rừng,…
Các tác phẩm thể hiện sự chuyển hướng trong tư tưởng: từ bi kịch cá nhân → niềm tin vào con người mới, xã hội mới.
Tiểu thuyết
- Truyện người hàng xóm (1944) – Báo Trung Bắc Thứ Bảy
- Sống mòn (viết xong 1944, xuất bản 1956), Nhà xuất bản Văn Nghệ.
- Và bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.
Truyện ngắn
Trước cách mạng
- Ba người bạn
- Đón khách
- Bài học quét nhà (1943)
- Bảy bông lúa lép
- Cái chết của con Mực
- Cái mặt không chơi được
- Chuyện buồn giữa đêm vui
- Cười
- Con mèo
- Con mèo mắt ngọc
- Chí Phèo (1941)
- Đầu đường xó chợ
- Điếu văn
- Đôi móng giò
- Đời thừa (1943)
- Đòn chồng
- Đui mù
- Nhỏ nhen
- Làm tổ
- Lang Rận
- Lão Hạc (1943)
- Mong mưa
- Một truyện xu-vơ-nia
- Một đám cưới (1944)
- Mua danh
- Mua nhà
- Một bữa no (1943)
- Người thợ rèn
- Nhìn người ta sung sướng
- Những chuyện không muốn viết
- Những trẻ khốn nạn
- Nghèo (1937)
- Nụ cười
- Nước mắt
- Nửa đêm
- Phiêu lưu
- Quái dị
- Quên điều độ
- Anh tẻ
- Rửa hờn
- Sao lại thế này?
- Thôi, đi về
- Giăng sáng (1942)
- Trẻ con không được ăn thịt chó (1942)
- Truyện biên giới
- Truyện tình
- Tư cách mõ (1943)
- Từ ngày mẹ chết
- Xem bói
- Dì Hảo (1941)
- Truyện người hàng xóm
- Rình trộm
- Đảo hang cọp (1942)
- Thám hiểm Châu Phi (1942)
Sau cách mạng
- Mò sâm banh (1945)
- Năm anh hàng thịt (1945)
- Một cuộc đốt làng (1945)
- Nỗi truân chuyên của khách má hồng (1946)
- Cách mạng (1946)
- Đôi mắt (1948)
- Đợi chờ
- Trần Cừ
- Những bàn tay đẹp ấy
- Hội nghị nói thẳng
- Định mức
Truyện ký kháng chiến
- Đường vô Nam
- Ở rừng (Nhật ký)
- Từ ngược về xuôi
- Trên những con đường Việt Bắc
- Bốn cây số cách một căn cứ địch
- Vui dân công
- Vài nét ghi qua vùng giải phóng
Ngoài ra ông còn làm thơ và biên soạn sách địa lý cùng với tác giả Văn Tân: Địa dư các nước châu Âu (1948), Địa dư các nước châu Á, châu Phi (1969), Địa dư Việt Nam (1951).
-
Hiện thực sâu sắc, nhân đạo thấm thía: Nam Cao nhìn thấy phẩm giá con người ngay cả trong những kiếp sống tăm tối nhất.
-
Phân tích tâm lý tinh tế: Ông đi sâu vào nội tâm nhân vật, đặc biệt là những bi kịch tinh thần.
-
Ngôn ngữ giản dị, đời thường: Gần gũi, chân thực, đôi khi mang giọng mỉa mai, chua chát.
-
Quan niệm nghệ thuật tiến bộ: Ông từng nói:
“Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.”
- Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết dự định sẽ viết. Trên đường về làng Đại Hoàng, ông bị quân Pháp bắt và xử bắn vào ngày 30 tháng 11 năm 1951 tại đồn Hoàng Đan thuộc làng Vũ Đại, xã Gia Trấn (Ninh Bình).
- Sau khi hy sinh, phần mộ ông đã bị thất lạc. Đầu năm 1996, một chương trình có tên “Tìm lại Nam Cao” nhằm tìm lại mộ phần của ông được Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức với sự tham gia của 35 đơn vị tham gia như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, báo Nhân dân,… Với sự giúp đỡ của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) mời dự, ngôi mộ của Nam Cao đã được tìm thấy ở nghĩa trang huyện Gia Viễn, (Ninh Bình) và quy tập về quê hương ông (xã Nam Lý, Ninh Bình). Tuy mất sớm, nhưng ảnh hưởng của ông đến văn học Việt Nam vẫn đáng kể. Cũng trong năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Nhà tưởng niệm Nam Cao được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại Hà Nam để tưởng niệm 53 năm ngày mất của nhà văn này.
- Dù mất sớm, ông để lại một di sản văn học đồ sộ và có giá trị lâu bền.
Tác phẩm của Nam Cao được đưa vào chương trình giảng dạy văn học Việt Nam ở nhiều cấp học.

Lò Thái Tú
hay