Search for:
Hướng dẫn cách làm bài NLVH & NLXH thi tốt nghiệp THPT

PHẦN 1: CÁCH LÀM CÂU NGHỊ LUẬN VĂN HỌC (ĐOẠN VĂN 200 CHỮ – 2 ĐIỂM)

I. ĐẶC ĐIỂM MỚI:

– Dạng viết đoạn văn khoảng 200 chữ.
– Ngữ liệu 100% là văn bản ngoài sách giáo khoa.
– Phân tích 1–2 chi tiết, hình ảnh, biện pháp nghệ thuật.
– Không viết bài dài như chương trình cũ.

II. CẤU TRÚC ĐOẠN VĂN (~200 CHỮ):

  1. Câu dẫn vào đoạn (1–2 câu): giới thiệu hình ảnh/nghệ thuật/chi tiết cần nghị luận.2. Phân tích cụ thể (5–6 câu):
    – Giải thích nghĩa/tác dụng của hình ảnh.
    – Phân tích nội dung và nghệ thuật.
    – Tác giả sử dụng biện pháp gì? Tác dụng?

    3. Đánh giá và mở rộng (2–3 câu):
    – Khẳng định giá trị biểu tượng/nghệ thuật.
    – Mở rộng liên hệ với các tác phẩm khác (nếu có).

    Lưu ý:
    – Không kể lại nội dung.
    – Không học thuộc máy móc.

III. MẪU ĐOẠN VĂN (~200 CHỮ):

Đề: Cảm nhận của anh/chị về hình ảnh “con đường nhỏ” trong đoạn thơ sau:
”    Có những con đường nhỏ
Dẫn lối những giấc mơ xa
Vàng nắng chiều nghiêng nghiêng đổ
Gió lùa mát tận hồn ta”

Đoạn văn mẫu:
Đoạn thơ sử dụng hình ảnh “con đường nhỏ” như một biểu tượng của những hành trình nội tâm, những khát vọng âm thầm nhưng tha thiết. Đó không chỉ là con đường vật lý, mà còn là con đường dẫn đến giấc mơ, lý tưởng sống. Hình ảnh “vàng nắng”, “gió lùa mát” gợi nên không khí bình yên, trong trẻo của tuổi trẻ. Qua đó, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế và đầy chất thơ trong tâm hồn tác giả. Hình ảnh “con đường nhỏ” nhắc ta nhớ đến những hành trình lặng lẽ mà mỗi người đều phải đi để trưởng thành. Đây là một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa, góp phần thể hiện tư tưởng nhân văn về ước mơ và sự sống nội tâm.

PHẦN 2: CÁCH LÀM CÂU NGHỊ LUẬN XÃ HỘI (BÀI VIẾT ~600 CHỮ – 4 ĐIỂM)

I. ĐẶC ĐIỂM MỚI:

– Viết bài khoảng 600 chữ.
– Đề bài là một vấn đề xã hội – đạo đức – tư tưởng – lối sống – hiện tượng.
– Kiểm tra khả năng trình bày quan điểm, tư duy logic, dẫn chứng thực tế.

II. CẤU TRÚC BÀI VIẾT (~600 CHỮ):

  1. Mở bài (3–5 dòng): giới thiệu vấn đề xã hội được nêu trong đề.2. Thân bài (~3 đoạn):
    a. Giải thích khái niệm/vấn đề.
    b. Phân tích – bàn luận:
    – Vì sao vấn đề ấy quan trọng?
    – Biểu hiện ra sao?
    – Tác dụng của phẩm chất đó trong cuộc sống?
    – Dẫn chứng thực tế, lịch sử, đời sống.
    c. Phản đề – phê phán những sai lệch.

    3. Kết bài:
    – Khẳng định lại vấn đề.
    – Bài học nhận thức và hành động.

III. MẪU KẾT BÀI NGHỊ LUẬN XÃ HỘI:

Ví dụ với đề về lòng biết ơn:
Lòng biết ơn là một giá trị sống nhân bản mà mỗi người cần rèn luyện từ trong gia đình ra ngoài xã hội. Học sinh hôm nay cần biết trân trọng thầy cô, cha mẹ và những người giúp mình trưởng thành để mai này trở thành người có ích.

Nguyễn Du

Nguyễn Du (3 tháng 1 năm 1766 – 16 tháng 9 năm 1820) tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộNam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc” và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”.

Khi nhắc đến ông thì mọi người luôn gắn ông với tác phẩm Truyện Kiều được xem là một kiệt tác văn học, một trong những thành tựu tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.

Tiểu sử
Gia thế

Theo một bản gia phả của dòng họ Nguyễn ở huyện Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng 1 năm 1766 theo lịch Gregory; một số tài liệu ghi 1765) tại làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.

Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Tư, hiệu Nghị Hiên, biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại Tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận công. Mẹ là bà Trần Thị Tần (24/8/1740 – 27/8/1778), con gái một người làm chức Câu kế. Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi, sinh được 5 con, bốn trai và một gái).

Tổ tiên của Nguyễn Du, quê nội ở làng Tảo Dương, quê ngoại ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), nổi tiếng với câu chuyện Trạng Cậu, Trạng Cháu (Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và Trạng nguyên Nguyễn Thiến). Về sau, Nam Dương công Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, là cháu của Trạng nguyên Nguyễn Thiến) di cư vào Hà Tĩnh, trở thành vị tổ phụ của dòng họ Nguyễn Tiên Điền.

Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giàu sang phú quý.

Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát liền kề.

Năm Ất Mùi 1775, anh trai Nguyễn Trụ (sinh năm 1757) qua đời.

Năm Bính Thân 1776 thân phụ ông mất.

Năm Mậu Tuất 1778, khi 12 tuổi, thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần mất. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa. Mới 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi).

Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này, Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.

Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại kiêm Trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên, tước Toản Quận công và Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.

Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Sinh đồ) lúc 18 tuổi. Ông lấy vợ là con gái của ông Đoàn Nguyễn Thục. Ông được tập ấm chức Chánh Thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, chỉ huy đội quân hùng mạnh nhất Thái Nguyên của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên cùng Nguyễn Đăng Tiến, làm quyền Trấn thủ Thái Nguyên thay mặt Nguyễn Khản.

Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ hầu, tức Cai Gia (theo Hoàng Lê nhất thống chí) một tay “giặc già” Trung Quốc gốc người Việt Đông, Quảng Tây sang đầu quân làm thuộc hạ, tân khách dưới trướng Nguyễn Khản. Cai Gia là người dạy võ, 18 thứ binh khí, binh thư và kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du. Cai Gia còn lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là người anh cả kết nghĩa sống chết, tồn vong cùng có nhau, và gọi tên là Nguyễn Đại Lang (Thanh Hiên thi tập).

Cũng trong năm này, anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ Giải nguyên khoa thi Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.

Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Dinh thự gia đình ở phường Bích Câu, Thăng Long bị kiêu binh phá sạch, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây.

Năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long.

Năm 1787, Nguyễn Du bốn năm trấn đóng Thái Nguyên, sau trận chiến với quân Tây Sơn, đi giang hồ không nhà không cửa cùng Nguyễn Đại Lang.

Năm 1788, tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Đăng Tiến khởi nghĩa tại Tư Nông, bị chỉ huy Giáo bắt được cùng Nguyễn Quýnh giải về cho Nhậm. Nhậm trọng khí khái, tha chết và cho tùy ý muốn đi đâu thì đi. Nguyễn Đại Lang (Nguyễn Đăng Tiến) cùng Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh sang Vân Nam, Trung Quốc.

Đến nơi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng xuân, hết bệnh Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục thành nhà sư Chí Hiên đi chu du Trung Quốc theo gương thi hào Lý Bạch. Họ chia tay tại Liễu Châu, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở Quế Lâm, hẹn gặp nhau tại Trung Châu (Hàng Châu).

Nguyễn Du đi chu du muôn dặm tại Trung Quốc (khoảng 5.000 km trong 3 năm), từ Liễu Châu qua Quảng Tây đi đường Trường Sa đến Hán Dương, qua sông Giang Hán đi Trường An và sau đó xuống Hàng Châu, “Giang Nam, Giang Bắc túi tiền không”.

Tại Hàng Châu, Nguyễn Du ngụ tại chùa Hổ Bào (虎跑寺), nơi nhân vật lịch sử Từ Hải, tức Minh Sơn Hòa thượng, từng tu hành. Nơi đây Nguyễn Du có được quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và quyết chí diễn ca thơ Nôm. Nguyễn Du và Cai Gia Nguyễn Đại Lang gặp lại tại miếu thờ và ngôi mộ của Nhạc Phi ở Hàng Châu (tại mộ Nhạc Phi, Nguyễn Du viết bài thơ Nhạc Vũ Mục mộ 岳武穆墓, nghĩa là “Mộ Nhạc Vũ Mục”), sau đó cùng đi Yên Kinh.

Năm Kỷ Hợi (1789), Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại.

Năm 1790, Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn được cử vào sứ bộ của vua Quang Trung giả, sang Trung Quốc triều kiến vua Càn Long.

Nguyễn Du trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà. Gặp nhau nơi lữ quán hai người đã cùng bàn luận về văn chương chuyện Hồng nhan đa truân. Nguyễn Du về trước và hẹn gặp nhau lại tại Thăng Long.

Cuối năm 1790, Nguyễn Du trở về Thăng Long. Ông có mối thân tình quen biết với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.

Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết. Dinh cơ, từ đường họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt cháy, phá hủy, làng Tiên Điền bị làm cỏ vì cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh.

Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở Viện Cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.

Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Nguyễn Du và Nguyễn Ức được Nguyễn Đề giao cho việc về Hồng Lĩnh xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền mà ông bận việc quan không thể trực tiếp trông coi.

Năm 1795, Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.

Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù). Nguyễn Du ra Thăng Long thì Hồ Xuân Hương đã được mẹ gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm.

Năm 1797, Nguyễn Đề thu xếp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em út Đoàn Nguyễn Thị Huệ cho Nguyễn Du. Đoàn Nguyễn Tuấn giao cho Nguyễn Du gia trang tại Quỳnh Hải, từ đây chấm dứt cuộc đời mười năm gió bụi.

Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Đề trốn tránh tại Phú Xuân được Gia Long gọi ra. Nguyễn Đề dâng sớ, vua Gia Long tha chết, mến tài và kính trọng dòng dõi con Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm nên cho đi theo ra Bắc Thành làm việc dưới quyền Tổng trấn Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Nể cố vấn chỉ dẫn các kinh nghiệm nghi lễ đi sứ, tiếp sứ Trung Quốc sang phong vương cho vua Gia Long như trường hợp Phan Huy Ích. Đoàn Nguyễn Tuấn, lúc này khoảng 50 tuổi, có lẽ về ẩn cư trong “Phong nguyệt sào”. “Phong nguyệt sào” (tổ gió trăng) là một cái chòi trong vườn hoa nhà Nguyễn Nể, nơi ông thường ngâm vịnh trong đó với tự hiệu là Sào Ông.

Năm Quý Hợi (1803), khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân lương đi đón vua Gia Long, đến Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện này giống như Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương mà được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử.

Nhờ thời kỳ đi giang hồ, Nguyễn Du đã thông thạo các ngôn ngữ Trung Quốc, nên chỉ mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông được đặc cách lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.

Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.

Năm Đinh Mão (1807), ông được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê nghỉ.

Năm Kỷ Tỵ (1809), ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.

Năm Quý Dậu (1813), ông được thăng Cần chánh điện học sĩ (chính Tam phẩm) và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.

Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ hữu Tham tri (tòng Nhị phẩm).

Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.

Năm Canh Thìn (1820), vua Gia Long qua đời, Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi, tức vua Minh Mạng. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch tả chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức 16 tháng 9 năm 1820) hưởng thọ 54 tuổi.

Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh.

Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành,… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.

Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán cho đến Truyện Kiều đã tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết các tác phẩm của ông.

Văn bản

Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai (Hà Nội lúc ấy). Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu, phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.

Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du để lại ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục.

Những năm đầu thế kỷ XX, khi biên soạn cuốn Truyện cụ Nguyễn Du, Lê Thước và Phan Sĩ Bàng đã thu thập được một phần lớn những bài thơ đó, nhưng chưa công bố, chỉ mới trích dẫn một số bài lẻ tẻ. Khoảng năm 1940-41, ông Đào Duy Anh lại làm công việc đó một lần nữa. Ông cho biết:

Ba tập thơ chữ Hán chính họ Nguyễn Tiên Điền cũng không giữ được tập nào. Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965, Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:

Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. Tập thơ được sáng tác trong ba giai đoạn:

  • Giai đoạn “Mười năm gió bụi”, từ năm 1786, năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh, khoảng cuối những năm 1795 đầu năm 1796.
  • Giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”, từ năm 1796 đến năm 1802.
  • Giai đoạn “Ra làm quan ở Bắc Hà”, từ năm 1802 đến cuối năm 1804 (trong giai đoạn này có lần nhà thơ được cử đi nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong sắc cho Gia Long).
Nam trung tạp ngâm

Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi được thăng hàm Đông các học sĩ vào làm quan ở Kinh (gần 4 năm) cho đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình (3 năm, 5 tháng). Ông viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.

Bài đầu tập thơ, “Phượng hoàng lộ thượng tỏa hành”, đúng là bài làm trên đường đi vào Kinh nhận chức: Từ tỉnh lỵ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng và quán Phượng hoàng, và bài “Nễ giang khẩu hương vọng”, gần cuối tập, có câu:

Độc bão hương tâm dĩ tứ niên
(dịch nghĩa: Ôm nỗi nhớ quê đã bốn năm trời).

Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Chúng tôi có theo dõi cuộc đi xứ này trên bản đồ theo những tài liệu mà các phái đoàn của ta gần đây đi tham quan Trung Quốc tìm được và đã đối chiếu với các bài thơ, thì thấy cách sắp xếp các bài thơ đã ổn. Bài “Thăng Long” (tháng 2 năm 1813) và bài cuối tập “Chu Phát” làm khi trở lại Võ Xương (cuối năm 1813). Từ đó, nhà thơ lên thuyền về Nam Quan theo con đường đã đi lần trước, nên không có thơ nữa. Chỉ có một vài bài còn Cối, Vương thị (vợ Tần Cối), không ở chỗ thích đáng của nó, làm ta ngờ rằng nhà thơ nhân nhớ đến những nhân vật đó mà làm thơ, chứ không phải tức cảnh sinh tình như tuyệt đại đa số các bài trong tập này. Trường hợp này giống trường hợp bài “Độc Tiểu Thanh ký” (số 78 Thanh hiên thi tập), bài này không phải làm khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh ở Tây Hồ, mà làm khi còn ở nhà, nên không ở trong Bắc hành tạp lục.

Với cách sắp xếp đó có thể hiểu được tâm sự của Nguyễn Du trong từng giai đoạn. Có thể xem ba tập thơ này là ba tập nhật ký ghi trong một khoảng thời gian dài, từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến năm nhà thơ 49 tuổi (1814), trước lúc chết 5 năm. Bài thơ nào cũng chứa đựng một lời tâm sự. Ngay những bài tức cảnh vịnh sử khi đi sứ Trung Quốc cũng không phải là những bài tức cảnh, vịnh sử thuần túy mà đều có bao hàm tâm sự của nhà thơ, bộc lộ thái độ sống của nhà thơ một cách hết sức rõ rệt.

Tập thơ 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du là một công trình tập thể đã được cụ Lê Thước và Trương Chính thu thập tài liệu, dịch nghĩa, chú thích, sắp xếp.

Về văn thơ Nôm, Nguyễn Du sử dụng tài tình hai thể thơ dân tộc lục bát và song thất lục bát. Ông đã làm mới ngôn ngữ văn học Tiếng Việt.

Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:

Nguyễn Du lưu lại trong kho tàng văn học Việt Nam thiên trường thi bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) được truyền tụng trong dân gian và được liệt vào tài liệu giáo khoa dạy ở bậc trung học. Đoạn Trường Tân Thanh là áng văn chương tuyệt tác, viết theo thể thơ lục bát gồm 3.254 câu, dài nhất trong các tác phẩm xưa nay.

Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột, tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: “Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn”.

Ngoài ra, Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh) là một ngâm khúc gồm có 184 câu theo thể song thất lục bát, trong đó chứa đựng tấm lòng từ bi của Phật tử Nguyễn Du đối với cảnh khổ của muôn vạn sinh linh, cũng là một tác phẩm giá trị được nhiều học giả nghiên cứu, trích giảng, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).

Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.

Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.

Thơ Nôm của Nguyễn Du đều thấy chỗ đậm, chỗ nhạt những yếu tố hoặc biểu hiện của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Các tác phẩm thơ Nôm của ông đều thể hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương bất hủ là Truyện Kiều.

Đề thi tốt nghiệp THPT phần viết

Kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội

I. Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí

  1. Đối tượng nghị luận

Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm hồn… của con người. Các tư tưởng, đạo lí đó thường được đúc kết trong những câu tục ngữ, danh ngôn, ngụ ngôn, khẩu hiệu hoặc khái niệm. Ví dụ: Uống nước nhớ nguồn, Trung thực, Khiêm tốn, Nhân ái, Không có gì quý hơn độc lập tự do…

  1. Những điểm cần lưu ý trong đề bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí

Vấn đề tư tưởng đạo lí có thể hoàn toàn đúng, cần ca ngợi, khẳng định; hoặc hoàn toàn sai lầm, cần lên án, phê phán; cũng có thể vừa đúng vừa sai. Đề bài yêu cầu bàn về vấn đề có tính chất đúng đắn, toàn diện, có bài học sống. Đề bài nêu lên hành vi, thói quen, hiện tượng, sự việc: nêu lên suy nghĩ của mình, nêu lên quan niệm: Yêu thương là cho đi hơn nhận về. Dạng mở, không có mệnh lệnh: đạo lí Có học mới hay, có cày mới giỏi…

  1. Dàn ý chung

Mở đoạn (khoảng 4 dòng) Dẫn dắt ngắn gọn vào vấn đề. Trích dẫn nếu cần. Nêu lên được tính cấp thiết của vấn đề. Thân đoạn (khoảng 12 – 16 dòng) Giải – Nguyên – Minh – Luận – Dụng

Bước 1. Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận. → Là gì?

– Yêu cầu: Chỉ giải thích những từ ngữ, hình ảnh chứa hàm ý hoặc chưa rõ nghĩa. Phải đi từ yếu tố nhỏ đến yếu tố lớn: giải thích từ ngữ, hình ảnh trước, rồi mới khái quát ý nghĩa toàn bộ vấn đề. Cần dựa vào văn bản phần Đọc hiểu để giải thích ý, tránh suy diễn.

Bước 2. Bình luận, nêu quan điểm cá nhân (thấy đúng, sai hay cả đúng cả sai). Lý giải cho quan điểm đó. → Tại sao?

– Yêu cầu: Phân tích, chia tách tư tưởng đạo lí thành các khía cạnh để xem xét, đánh giá, đưa ra quan điểm cá nhân rõ ràng. Lập luận bảo vệ cho quan điểm của mình, đồng thời bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề tư tưởng, đạo lí đang bàn luận. Khi bàn luận, đánh giá cần thận trọng, khách quan, có căn cứ vững chắc.

Bước 3. Minh chứng bằng các dẫn chứng, ví dụ cụ thể. → Như thế nào? Yêu cầu: Dẫn chứng cần chân thực, hợp lí, tiêu biểu, phục vụ cho việc bàn luận. Nên kết hợp các dẫn chứng sự kiện – hiện tại, trong nước – thế giới, người nổi tiếng – người bình thường, hiện tượng – con người… để cho phong phú, đa dạng và giàu sức thuyết phục. Một số cách lấy dẫn chứng phổ biến

+ Cách 1. Lấy dẫn chứng bằng các hiện tượng có thật hiển nhiên, không thể phủ nhận (ví dụ: thủng tầng ozon khiến bầu khí quyển bị ảnh hưởng…).

+ Cách 2. Lấy dẫn chứng bằng số liệu cụ thể, rõ ràng (ví dụ: thống kê con số các vụ tai nạn giao thông, các vụ ngộ độc thực phẩm…).

+ Cách 3. Lấy dẫn chứng bằng một ví dụ tiêu biểu, nổi tiếng, điển hình (ví dụ: thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí đã vượt lên số phận để trở thành nhà giáo ưu tú…).

+ Cách 4. Lấy dẫn chứng bằng lời nói của một người nổi tiếng (ví dụ: Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó…).

Bước 4. Luận bàn, đánh giá các khía cạnh của vấn đề: phê phán hạn chế, ca ngợi, khẳng định hướng tích cực… → Toàn diện chưa?

– Yêu cầu: Các em học sinh nên tự đặt ra và trả lời các câu hỏi: Tư tưởng đạo lí đã đầy đủ, toàn diện chưa? Có thể bổ sung thêm điều gì? Cần xem xét từ nhiều góc độ, nhiều quan hệ để đánh giá và bổ sung cho hợp lí, chính xác, lật đi lật lại vấn đề, tránh phiến diện. Có thể đưa ra các quan điểm khác biệt nhưng phải hợp lí và thuyết phục.

Bước 5. Thực hành tư tưởng đạo lí trong thực tế: nêu bài học nhận thức và hành động. → Cần làm gì?

– Yêu cầu: Bài học phải được rút ra từ chính tư tưởng đạo lí mà đề yêu cầu. Bài học cần thành văn, dễ ghi, phải hướng tới tuổi trẻ, ứng dụng thiết thực cho thực tế đời sống, không sáo rỗng, hình thức. Nên rút ra hai bài học, một về nhận thức, một về hành động.

Bước 6. Kết đoạn (Khoảng 4 dòng)

Nêu suy nghĩ về tầm quan trọng của vấn đề đã nghị luận.

Đưa ra thông điệp hay lời nhắn gửi có giá trị.

  1. Ví dụ minh hoạ

Kì thi của các em học sinh đang tới gần. Chúng tôi biết rằng các vị đều đang mong cho con mình sẽ giành được kết quả cao trong kì thi này. Tuy nhiên, xin hãy nhớ rằng, trong số các em, những người có mặt tại kì thi, có người sẽ là một nghệ sĩ, người không cần hiểu sâu về Toán. Có người sẽ là một doanh nhân, người không cần phải quá quan tâm đến lịch sử hay văn học Anh. Có người sẽ là một nhạc sĩ, người mà với họ, môn Hóa học sẽ chẳng có ý nghĩa gì nhiều. Có người sẽ là một vận động viên, người mà việc rèn luyện thể chất sẽ quan trọng hơn là môn Vật lí, giống như vận động viên Schooling của chúng ta. Nếu con bạn đạt điểm cao, điều đó thật là tuyệt vời. Nhưng nếu con không thể, xin đừng làm điều đó trở thành sự tự ti và nhấn chìm con. Hãy nói với con rằng: ôn thi một môn, đó chỉ là một kì thi. Con được sinh ra trên đời cho những điều lớn lao nhiều hơn thế. Hãy nói với con rằng, dù điểm số của con là bao nhiêu, cha mẹ vẫn yêu con và không hề phán xét. Xin hãy làm như vậy, và nếu cần có được một điều ước, hãy cho con xem mình chinh phục thế giới. Một kì thi hay một điểm số kém sẽ không thể gạt bỏ đi những ước mơ và tài năng bên trong của con. Và cuối cùng, xin đừng nghĩ rằng chỉ có kĩ sư hay bác sĩ mới là những người hạnh phúc duy nhất trên thế giới này.

(Trích “Bức thư kì thi của thầy hiệu trưởng Singapore gửi phụ huynh khiến nhiều người phải suy ngẫm”, nguồn: kenh14.vn, ngày 26/8/2016)

 

Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của Anh (Chị) về ý kiến của thầy Hiệu trưởng: “Xin đừng nghĩ rằng chỉ có kĩ sư hay bác sĩ mới là những người hạnh phúc duy nhất trên thế giới này.”

Hướng dẫn làm bài

Giải thích: Bác sĩ, kĩ sư là những người tri thức có trình độ văn hóa chuyên môn cao, có kiến thức chuyên sâu, được mọi người và xã hội xem trọng. Hạnh phúc là trạng thái sung sướng, vui vẻ, thoải mái, sảng khoái vì cảm thấy hoàn toàn được ý nguyện. Câu nói của thầy Hiệu trưởng muốn khẳng định: trên thế giới này với những giá trị đạt được lớn hơn cả của tri thức.

Phân tích và chứng minh: Hạnh phúc đôi khi rất bình dị, đến từ những điều bé nhỏ, giản dị trong cuộc đời chứ không nhất thiết có được khi phải đạt được những bậc thang tri thức hay danh vọng xã hội. Sống một cuộc đời ý nghĩa, sống cống hiến, làm nhiều việc tốt cho cộng đồng… cũng là hạnh phúc.

Bàn luận và mở rộng: Người hạnh phúc nhất là người mang hạnh phúc đến cho nhiều người nhất. Được là chính bản thân mình; sống chân thành với đúng sở trường, ước mơ; biết phát huy cao độ năng khiếu bản thân. Biết đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ người khác. Phê phán những quan niệm lệch lạc: áp đặt chủ quan khi chỉ về hạnh phúc hoặc lối sống thờ ơ, phó mặc, không có ước mơ, không biết kiến tạo niềm vui.

Bài học nhận thức và hành động: Cần hiểu thấu đáo, đúng đắn về hạnh phúc để sống hạnh phúc và giúp người khác sống vui vẻ. Năng nổ, trân trọng những niềm vui bình dị quanh mình; phải biết sống, khám phá và hành phúc chân chính và bền lâu.

II. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống

  1. Đối tượng nghị luận

– Đề tài nghị luận là các hiện tượng đời sống đáng được suy nghĩ trong cuộc sống hằng ngày, nhất là các hiện tượng liên quan trực tiếp đến tuổi trẻ và có ý nghĩa đối với xã hội.

 

– Các hiện tượng này có thể có ý nghĩa tích cực như: ý chí, nghị lực, tình yêu thương…

– Đồng thời cũng có thể là những hiện tượng tiêu cực cần phê phán như: sự lười nhác, những thói quen xấu, tham nhũng…

  1. Những điểm cần lưu ý trong đề bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống

– Có sự việc, hiện tượng cần ca ngợi, biểu dương.

– Có sự việc, hiện tượng không tốt, cần lưu ý, phê phán, nhắc nhở.

– Có đề không cung cấp nội dung sẵn, mà chỉ gọi tên, người làm bài phải trình bày, mô tả sự việc, hiện tượng đó.

– Mệnh lệnh trong đề thường là: nêu nhận xét, nêu ý kiến, nêu suy nghĩ của mình, bày tỏ thái độ, trình bày suy nghĩ…

– Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống thường có ba loại nhỏ:

– Trình bày suy nghĩ về một hiện tượng trong đời sống xã hội: như nghị lực, ý chí, tình yêu thương…

– Trình bày suy nghĩ về hai hiện tượng trong đời sống xã hội trái ngược nhau: như thất bại và thành công, cho và nhận… Loại này cần xem xét quan hệ giữa hai hiện tượng.

– Từ một hiện tượng thiên nhiên, trình bày suy nghĩ về đời sống xã hội như: Giữa một vùng khô cằn sỏi đá, cây hoa dại mọc lên và nở những đóa hoa thật đẹp; câu chuyện hai biển hồ ở Palestine… Suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng trên.

  1. Dàn ý chung

a) Mở đoạn (khoảng 4 dòng)

– Dẫn dắt gọn gàng vào hiện tượng.

– Nêu luận thái độ đánh giá chung về hiện tượng đó.

b) Thân đoạn (khoảng 13 – 16 dòng) Thực – Nguyên – Thái – Biện – Liên

Bước 1: Thực trạng: Các biểu hiện cụ thể trong cuộc sống của hiện tượng được nêu → Như thế nào?

– Có thể nêu mối quan hệ của hiện tượng này với ngữ liệu phần Đọc hiểu.

– Nêu những ví dụ, minh chứng cụ thể, chi tiết và chính xác.

– Nếu nó tốt, biểu dương hoặc khuyến khích.

– Nếu không rõ thì tuyệt đối không được ghi sai lệch thông tin, làm giảm tính thuyết phục của bài viết.

Bước 2: Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên (Khách quan và chủ quan) → Do đâu?

– Nguyên nhân của hiện tượng xã hội bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp.

– Nguyên nhân đưa ra cần hợp lý, chính xác.

Bước 3: Nêu đánh giá, nhận định về mặt đúng – sai, lợi – hại, kết quả – hậu quả, bày tỏ thái độ biểu dương hay phê phán → Thái độ như thế nào?

– Thái độ đánh giá khách quan, rõ ràng.

– Có thể nêu những cách đánh giá mang màu sắc cá nhân, nhưng phải thuyết phục và hợp lý.

Bước 4: Biện pháp khắc phục hậu quả hoặc phát huy kết quả → Làm gì?

– Biện pháp đưa ra cần thiết thực, khả thi, không chung chung, trừu tượng.

– Biện pháp bao gồm cả biện pháp của xã hội – cơ quan Nhà nước – cá nhân; biện pháp cả về thức – hành động.

Bước 5: Liên hệ bản thân, rút ra bài học nhận thức và hành động cho mình → Bài học gì?

– Bài học cho bản thân phù hợp với quan điểm, thái độ cá nhân nêu trước đó.

– Cần nêu hai bài học: một bài học nhận thức, một bài học hành động.

c) Kết đoạn (khoảng 4 dòng)

– Nêu suy nghĩ về tầm quan trọng của vấn đề đã nghị luận.

– Đưa ra thông điệp, hay lời khuyên cho mọi người.

– Nêu suy nghĩ về sự thay đổi của hiện tượng xã hội đó trong tương lai.

  1. Ví dụ minh họa

“Dẫu trời nói, dẫu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đại đức mới ngồi ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rách đông lạnh tức nhức lay dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong. Dân khôn mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, một người làm quan mọi nhà đều có phước; dầu tham, dầu nhũng, dầu vô vết, dầu rửa tội của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì khen đó, người nhà thì đua hùa oan, khiến những kẻ hám lợi mới phải quý không đưa đến vạn dân trường đạo được!”

(Phan Châu Trinh, “Về luân lý xã hội ở nước ta”, Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 86 – 87)

Hướng dẫn làm bài

Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến: “Dẫu tham, dầu nhũng, dầu vô vết, dầu rửa tội của dân thế nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai.”

Mở đoạn:

– Tham nhũng thì thời nào chẳng có, ở nơi nào, nước nào chẳng có. Vương Ông và Vương Quan muốn thoát cảnh tù đày phải đút lót quan lại: Có ba trăm lạng, việc này mới xong (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến có câu nói về chuyện “công lí đồng tiền” thật nhẹ nhàng mà sâu sắc:

‘’Có tiền việc ấy mà xong nhỉ

Đời trước làm quan cũng thế à!’’

– Trích dẫn ý kiến.

Giải thích

– Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải thích từ “tham nhũng”, như sau: Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của dân.

– Không ai phê phán bị lạ sự bỏ mặc biết mà không lên tiếng.

Thực trạng

– Đã tham ô, tham nhũng đang là một hiện tượng, một vấn đề nóng mà cả thế giới phải quan tâm.

– Nó xảy ra hầu hết ở mọi quốc gia và cấp ngành trong xã hội.

– Hiện thời ngày càng tinh vi, kĩ xảo cao.

Phân tích và chứng minh

– Nếu thế giới có căn bệnh thế kỉ không có thuốc đặc trị là HIV/AIDS thì ta cũng có thể xem bệnh tham nhũng cũng giống như căn bệnh thế kỉ kia.

Nguyên nhân

– Điều đáng buồn là nó lại xuất phát từ những quan chức cấp cao của nhà nước đến các tầng lớp thượng lưu.

– Ngay cả trong một cộng xưởng nhỏ bé cũng xuất hiện vấn đề tham ô.

Hậu quả

– Lương tâm và đạo đức biến chất.

– Tham nhũng – nó như một con vi rút len lỏi vào từng ngóc ngách, hơi thở trong cuộc sống con người.

Bàn luận và đánh giá

– Cái ý nghĩ điên rồ rằng phải có tiền mới được sung sướng, phải có tiền mới khẳng định được bản thân đã ăn sâu vào tiềm thức, khiên bố bóng chốc trở thành kẻ tham ô, tham nhũng lúc nào không hay.

– Để chấm dứt nạn tham nhũng thì không thể nói nhẹ nhàng, giải quyết nhanh chóng, làm điên đảo tài chính – kinh tế và giết chết dần lành trong cơn túng quẫn tột cùng.

Bài học nhận thức và hành động

– Chúng ta biết đây là vấn đề nan giải, còn tồn tại lâu. Nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây mà nói theo cái kiểu chỉ biết nói mà không biết làm thì sao thay đổi được.

– Khẳng định tầm quan trọng của vấn đề.

– Liên hệ bản thân.

– Đề xuất sáng kiến.

 

Kết bài chung cho thơ

        Với những dòng thơ của “tác giả”, ta không chỉ nhìn thấy vẻ đẹp của ngôn từ mà còn cảm nhận được sự sâu sắc của những tâm tư ẩn giấu trong từng câu chữ. Thơ là sự kết nối giữa tâm hồn người viết và người đọc , là một cách thức để chúng ta chia sẻ và hiểu nhau hơn trong quá trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống Dù cuộc đời có thay đổi, những niềm vui, nỗi buồn hay khao khát tận cùng của con người vẫn luôn là nguồn cảm xúc. Thử thách vô tận cho thi ca. Và qua bài thơ này, ta thấy rằng trong từng khoảnh khắc khắc nghiệt, dù lớn hay nhỏ, đều chứa đựng những bài học quý giá, giúp ta vững vàng hơn trên con đường của mình.

        Và khi nhịp thơ…… khép lại, cũng là lúc ta hiểu rằng, dù cuộc sống có vô vàng thăng trầm, những cảm xúc thơ ấy vẫn mãi là món quà quý giá. Thơ không chỉ là lời nói, mà là nhịp đập của trái tim , là ánh sáng dẫn đường cho tâm hồn mỗi người . Dù mỗi con đường có khác biệt, mỗi trái tim có nỗi niềm riêng, nhưng khi ta cùng chia sẻ qua những câu thơ , chúng ta đã tìm thấy sự đồng cảm, sự an ủi, và niềm hy vọng. Những dòng thơ sẽ mãi vang vọng trong không gian, nhắc nhở ta về vẻ đẹp của cuộc sống, về những điều nhỏ bé nhưng vô cùng quý giá.

       Và thế là bài thơ đã khép lại, nhưng những cảm xúc, những suy tư ấy sẽ còn vương vấn mãi trong lòng người đọc. Thơ không chỉ là ngôn từ, mà là khúc ca của tâm hồn, là nhịp thở của cuộc sống. Mỗi bài thơ đều để lại một dấu ấn riêng, là lời nhắc nhở rằng trong cuộc đời này, cái đẹp luôn tồn tại ở những điều giản dị nhất, chỉ cần lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra rằng thơ là ngôn ngữ của trái tim, là ánh sáng soi đường giữa những khúc quanh cuộc đời.

       Cuối cùng, khi những dòng thơ đã dừng lại, ta nhận ra rằng không có sự kết thúc nào thực sự là kết thúc. Thơ, như một dòng vĩnh viễn, sẽ tiếp tục lan tỏa, nuôi dưỡng tâm hồn trong từng hơi thở của cuộc sống. Mỗi từ, mỗi hình ảnh như những mảnh ghép của vũ trụ, để rồi khi kết thúc, chúng ta thấy mình không chỉ là người đọc mà còn là người sống trong chính những lời thơ sống này.

        Qua những dòng thơ đầy cảm xúc và hình ảnh, ta không chỉ tìm thấy tài hoa của nhà thơ mà còn cảm nhận được những tầng ý nghĩa sâu xa mà tác giả muốn truyền tải. Tác phẩm như một lời nhắc nhở tinh tế về giá trị của cuộc sống, về tình yêu, thiên nhiên hay con người. Chính nhờ cách dùng ngôn ngữ thông minh, nhà thơ đã đưa người đọc vào một thế giới vừa quen thuộc vừa mới lạ, để từ đó mỗi chúng ta đều có thể tìm thấy cho mình những suy tư và bài học riêng. Thơ không chỉ là lời, là chữ, mà còn là nơi giao hòa của những tâm hồn, để lại trong lòng người đọc một cảm xúc khó phai.

Chat Zalo